Anda di halaman 1dari 11

Dự án bô-xít Tây Nguyên:

Suy nghĩ của một người Việt Nam ở nước ngoài


03/06/2009 | 6:00 sáng |

Tác giả: Lê Xuân Khoa

Chuyên mục: Bauxite Tây Nguyên, Chính trị - Xã hội


Thẻ: Kết hợp trí thức trong và ngoài nước > Võ Văn Kiệt

Dự án khai thác mỏ bô-xít trên Tây Nguyên ở Việt Nam đã gây nên dư luận chống đối mạnh
mẽ từ nhiều giới trong và ngoài nước kể từ sau khi hai lá thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
một gửi Thủ tướng Chính phủ ngày 14/01/2009 nhưng không được hồi đáp, và một gửi cho
khoá Hội thảo về bô-xít ngày 09/04, nhưng đã được Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, người
chủ trì hội thảo, kết luận là dự án vẫn được chính phủ đánh giá cao và tiếp tục tiến hành.
Ngày 12/04, một Thư Kiến nghị do ba nhà trí thức trong nước là Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn
Thế Hùng và Phạm Toàn soạn thảo đã được gửi đến Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quốc hội và
Thủ tướng Chính phủ ngày 17/04/2009, với sự ủng hộ của 135 trí thức trong và ngoài nước.
Lá thư này cho đến nay đã có tổng cộng trên 1.800 người đồng ký tên.

Thư Kiến nghị khẳng định “việc khai thác tài nguyên của đất nước, trong đó có tài nguyên
bauxite, là việc làm cần thiết, nhưng đó không thể là việc làm bằng mọi giá.” Thư Kiến nghị
dẫn chứng những nhận định của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và của các chuyên gia, khoa học
gia và những nhà nghiên cứu độc lập, cho thấy những nguy cơ về chính trị, quốc phòng, kinh
tế, môi trường, và những sai phạm khó chấp nhận trong chủ trương làm dự án bauxite này.
Cuối cùng lá thư đưa ra ba kiến nghị cụ thể:

1) Phải đưa vấn đề dự án bauxite Tây Nguyên ra trước Quốc hội và mọi chủ trương liên quan
phải được Quốc hội quyết định;

2) Dự án bauxite Tây Nguyên phải chính thức dừng ngay lại, có giám sát chặt chẽ cho tới khi
Quốc hội xem xét toàn bộ báo cáo tiền khả thi và đưa ra những phê chuẩn thích hợp;

3) Những nghiên cứu tiền khả thi với vấn đề bauxite Tây Nguyên cần được dư luận rộng rãi
tham gia và theo dõi.

Tóm lại, đây là một lá thư của những trí thức và công dân có tinh thần trách nhiệm bày tỏ với
những nhà lãnh đạo sự lo lắng khôn cùng về một dự án có tầm chiến luợc sống còn của đất
nước, và thẳng thăn đề nghị trong tinh thần xây dựng, hoàn toàn phù hợp với chủ trương của
Nhà nước là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.”

Ngày 25 tháng 4, Bộ Chính trị đưa ra một Thông báo Kết luận về dự án bauxite, chủ yếu là
hướng dẫn việc triển khai các dự án phải “trên cơ sở hiệu quả tổng thể, gồm cả hiệu quả kinh
tế và hiệu quả xã hội” vì việc khai thác bô-xít, sản xuất alumin “có tác động lớn đến môi
trường”, nếu không được quản lý tốt sẽ gây ra “hậu quả nghiêm trọng mà việc khắc phục
phải mất nhiều năm với chi phí tốn kém lớn.” Bộ Chính trị yêu cầu phải sử dụng “thiết bị và
công nghệ hiện đại” trên thế giới, quan tâm đến đời sống và giữ gìn bản sắc văn hoá các dân
tộc Tây Nguyên, sử dụng lao động nước ngoài phải đúng quy định của pháp luật. Kết luận
của Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Tây Nguyên là khu vực nhạy cảm, cần đặc biệt quan tâm đến
vấn đề an ninh, quốc phòng cho cả trước mắt và lâu dài, đến môi trường tự nhiên và môi
trường văn hoá”.1

Qua Thông báo Kết luận này, Bộ Chính trị đã gián tiếp trả lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp và
nhóm trí thức trong và ngoài nước, chia sẻ những quan tâm chính đáng về các dự án bô-xít
Tây Nguyên, đồng thời có những hướng dẫn xác đáng cho việc triển khai các dự án này. Tuy
nhiên, Bộ Chính trị vẫn chủ trương tiến hành khai thác bô-xít theo quy hoạch thay vì khuyến
cáo ngưng các dự án này cho đến khi có kết quả nghiên cứu toàn diện vấn đề bô-xít Tây
Nguyên, đáp ứng những quan tâm chung đã nêu trên.

Gần một tháng sau ngày thư kiến nghị được gửi đến ba cơ quan đầu não của chính quyền,

GS Nguyễn Huệ Chi mới nhận được hồi âm từ một nơi là Quốc hội, dưới hình thức của một
mẫu in sẵn thư trả lời “đơn khiếu nại” của dân chúng. Người ký tên trên mẫu thơ in sẵn này
không phải là Chủ tịch Quốc hội mà là Phó chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội. Ngoài
ra, trong thư trả lời cũng như ngoài bì thư, tên của GS Nguyễn Huệ Chi đều bị ghi là Nguyễn
Thị Huệ. Trước phản ứng của dư luận chi trích cách trả lời bất xứng, phi văn hoá này, ngày
23 tháng 5, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội đã gửi văn thư xin lỗi GS Chi về “những
sai sót” trong công văn nói trên.

Sau khi ký tên trên Thư Kiến nghị, tôi vẫn theo dõi tin tức liên quan đến dự án bauxite qua
trang mạng bauxitevietnam.info với ý định đóng góp ý kiến khi cần. Ngày 24 vừa qua, tôi
được đọc bản Báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội, và ngày 26 được đọc lời bình luận bước
đầu của các tác giả trang mạng bauxitevietnam.info. Trong ngày 25, tôi cũng đã được đọc
những email trao đổi ngày 24 giữa Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và Kiến trúc sư Trần Thanh
Vân về nhu cầu phản biện “những sai trái cố tình hoặc do cảm tính trong bản báo cáo ấy”. Cả
chị Vân và anh Chi đều kêu gọi những người đã ký tên trên Thư Kiến nghị hoặc mời chuyên
gia quen biết cùng lên tiếng phản biện.

Đặc biệt trong email của anh Nguyễn Huệ Chi trả lời chị Trần Thanh Vân có câu: “Còn chị
hình dung đến cái nguy cơ kẻ thù truyền kiếp của chúng ta sẽ lật mặt gây hấn nay mai với
thế thượng phong thì chúng tôi cũng nghĩ gần như chị, không khác gì chị. Đó là linh cảm,
trực giác của anh trí thức hàng ngày gắn với thực tiễn đất nước, chứ trí thức Việt kiều đôi khi
không cảm được cái nguy cận kề đó nên vẫn còn ung dung tranh luận bàn tròn. Tôi đã từ ít
lâu nay không muốn làm kẻ sophiste nữa.”

Cũng trong ngày 24, có hai trí thức Việt kiều đã góp ý về lời phát biểu của anh Chi. Người
thứ nhất là anh Trương Phước Trường ở Úc (hay Đức?). Anh Trường thông cảm với “sự khó
nhọc phải chạm trán rất gần với các ‘thực tiễn của đất nước’ của anh Chi, nhưng dù ở xa với
“thực tiễn của đất nước” anh “cũng không vì thế mà muốn mình là kẻ sophiste.” Anh Trường
có một ý kiến rất hay là “để giúp cho tiếng nói chung có hiệu quả, Việt kiều ở nước ngoài có
khi cần có tiếng nói không giống với trong nước, để thể hiện những cách nhìn khác nhau, tuy
cùng về một hướng. Đó là sự bổ sung, chứ không phải là ‘tranh luận’. Ví dụ như, trong khi
trong nước có thể quan tâm về kết quả của một kiến nghị, về nội dung hay kết luận của một
bản báo cáo, một Việt kiều ở ngoài nước muốn góp ý cho vấn đề có khi cần chú trọng nhiều
đến phương pháp hơn là vấn đề ‘kết quả’, như thế mới có sự bổ sung thiết thực cho trong
nước, dù là ‘Vấn đề đã cấp bách lắm rồi’.”

Việt kiều thứ hai là anh Phạm Xuân Yêm ở Pháp. Anh Yêm cũng qui chiếu vào lời phát biểu
của anh Nguyễn Huệ Chi về trí thức sophiste để cho thấy anh muốn góp ý kiến thiết thực về
một vấn đề quan trọng khác được đề cập trong đoạn cuối của Thư Kiến nghị: “chúng tôi cũng
kêu gọi người Trung Hoa nhất là giới trí thức hãy ủng hộ dân tộc Việt Nam, giúp cho môi
trường sống của nước láng giềng phía Nam được trong lành, giúp cho nhiều vấn đề còn dở
dang giữa hai quốc gia được giải quyết trong hoà bình và hữu nghị.” Anh Yêm nói rõ sự cần
thiết phải “phân biệt một bên là hai chính quyền Trung Quốc và Việt Nam với bên kia là đa
số nhân dân bình thường (trong đó có thành phần trí thức) của hai nước, họ ít nhiều là nạn
nhân bị lôi kéo vào vòng kim cô.” Anh Yêm cũng hoàn toàn đồng ý với nhận xét của anh Chi
về ý kiến của chị Trần Thanh Vân cho rằng người Trung Quốc trong Cách mạng Văn hoá đã
bộc lộ hết những nét xấu mà dân tộc ta không có. Anh Chi viết: “Tôi thì tôi nghĩ dân mình
cũng có đủ các nết xấu ấy, có khi còn xấu hơn, song xét từ cội rễ thì cái xấu này chính là do
sự xảo quyệt của những người cầm lái bên trên muốn khai thác và khuếch đại nó lên, chứ
nông dân Việt Nam cũng như Trung Quốc vốn dĩ bản chất rất tốt và cũng có những cố tật như
nhau, chẳng ai hơn ai kém đâu.”

Anh Yêm bàn thêm: “Cũng như cảm tính âm ỷ “bài Việt (yuon), kẻ thù truyền kiếp” của một
số người Miên, hay “bài Nhật, “kẻ thù truyền kiếp” của một số người Triều Tiên, do cả một
quá trình lịch sử phức tạp, bi thảm của bao quốc gia trên thế giới, mà cũng chẳng riêng gì
châu Á. Thiết nghĩ ta phải vượt qua cái xenophobie, không liên kết cái cảm tính “bài Hoa”
tìềm tàng lúc lên lúc xuống trong tâm thức của một số người Việt với những vấn đề ô nhiễm
môi sinh, kinh tế, kỹ thuật, xáo trộn xã hội của Bauxite.”

Trở lại với lòng mong đợi của anh Nguyễn Huệ Chi là trong số 135 người được anh liên lạc
sẽ có người lên tiếng phản biện hoặc mời giùm những nhà chuyên môn tiếp tay phản biện bản
báo cáo của Bộ Công Thương, tôi xin nói ngay rằng tôi không thể phản biện với tư cách một
chuyên gia về bô-xít. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây không phải là nhu cầu phản biện mà
không nên phí thì giờ để phản biện thêm nữa, vì tất cả những lời cảnh báo về dự án bô-xít của
các nhà khoa học môi trường, các chuyên gia kinh tế và xã hội, các nhà ngoại giao, tướng
lãnh về an ninh, quốc phòng, từ trước và sau bản Báo cáo của Bộ Công Thương đã quá đủ
rồi.

Vấn đề chính là có thể ngưng tiến hành dự án bô-xít Tây Nguyên để làm một cuộc tổng duyệt
mọi khía cạnh kỹ thuật, kinh tế, xã hội, và an ninh quốc phòng-trước mắt và lâu dài-để cho
việc quy hoạch và triển khai dự án đạt được lợi ích mong muốn hay không?

Câu hỏi này thật ra đã được Bộ Chính trị trả lời trong bản Thông báo Kết luận, lưu ý chính
phủ về những điều phải quan tâm nhưng “chỉ đạo tiếp tục thực hiện chủ trương triển khai 2
dự án ở Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông) do Tập đoàn Công nghiệp Than -
Khoáng sản Việt Nam làm chủ đầu tư, đồng thời chưa chủ trương bán cổ phần cho tổ chức và
cá nhân nước ngoài.”2

Ngày 20 tháng 5, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết lá thư thứ ba, lần này gửi Ban Chấp hành
Trung ương và Bộ Chính trị, kiến nghị “dừng các dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, kể cả
khai thác thí điểm”, và “đề nghị Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội hãy nêu cao trách nhiệm
to lớn trước toàn Đảng, toàn dân thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo một cách dân chủ, khoa
học… Làm như vậy là để tránh đuợc quyết định sai lầm, gây nên tai hoạ lớn cho đất nước.”

Cho đến lúc này, tôi không thấy có lý do nào để tin rằng những kiến nghị của Đại tướng sẽ
được Bộ Chính trị đáp ứng tích cực. Về phía Quốc hội thì trước khi mở diễn đàn cho các đại
diện dân cử phát biểu ý kiến, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đã quả quyết với báo chí là
“chắc chắn Quốc hội sẽ hoàn toàn ủng hộ các dự án bô-xít Tây Nguyên.” Mặc dù đã có ba
dân biểu Dương Trung Quốc, Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Lân Dũng lên tiếng chia sẻ
quan điểm của ĐT Võ Nguyên Giáp và những người ký Thư Kiến nghị, tôi không có ảo
tưởng rẳng đa số trong Quốc hội sẽ có quyết định khác với chỉ đạo chính phủ của Bộ Chính
trị. Tôi cầu mong là tôi sẽ lầm, nhưng nếu đúng như vậy thì tất cả những lá thư tâm huyết của
Đại tướng anh hùng Điện Biên Phủ đều bị coi là vô giá trị, và Thư Kiến nghị của nhóm trí
thức yêu nước sẽ trở thành thơ ngây vì đã đặt niềm tin vào một Quốc hội “rubber stamp” dưới
chế độ hiện hành. Tôi tin chắc GS Chi và những người bạn của anh không phải là những
người ngây thơ và có lý do để làm chuyện này, nhưng nếu thất bại thì vẫn không tránh khỏi bị
mang tiếng chủ quan.

Trong thư trả lời KTS Trần Thanh Vân, GS Nguyễn Huệ Chi đã cho biết anh “cầm chắc phần
thua keo này dù trực giác cho tôi thấy chúng ta hoàn toàn đúng khi đòi hỏi dừng dự án
bauxite.” Nói “thua keo này” tức là có hàm ý sẽ “bày keo khác”. Nhưng nếu chỉ kêu gọi
thêm ý kiến phản biện thì thế nào cũng lại thua để lại phải bày keo khác nữa, nếu chưa chịu
bỏ cuộc. Tôi không “hàng ngày gắn với thực tiễn đất nước” nên khó có thể góp ý về phương
cách nào khác thích hợp với anh em ở trong nước, ngoài đề nghị thực tế là, bằng mọi cách,
phải phổ biến các thông tin cần thiết về dự án bô-xít thật mau chóng và sâu rộng mà không
cần khích động tới mọi giới trong quần chúng, nhất là mọi thành phần trong quân đội nhân
dân là lực lượng chủ yếu bảo vệ nền độc lập của tổ quốc.

Nhưng tôi thấy rõ được một điều là trí thức và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có
thể hỗ trợ đắc lực cho những nỗ lực của trí thức và các giới nhân dân ở trong nước. Tuy
nhiên, do nhiều yếu tố tâm lý và chính trị phức tạp trong quan hệ giữa trong và ngoài nước,
không chỉ từ 1975 mà từ sau ngày đất nước bị chia đôi năm 1954, sự hỗ trợ cần thiết này chỉ
có thể thực hiện nếu cả hai bên đều hiểu biết được những khác biệt và trở ngại còn tồn tại,
không chỉ giữa hai bên mà ngay cả trong nội bộ mỗi bên. Người bên ngoài cần hiểu rằng
những người yêu nước ở bên trong đang phải thường xuyên chịu đựng mọi hành động theo
dõi, khuyến cáo và đe dọa của lực lượng an ninh, do đó không thể tự do phát biểu và đòi hỏi
như những công dân trong một xã hội dân chủ. Cũng do đó, cần tránh cho người trong nước
bị qui chụp là cấu kết với các tổ chức phản động ở bên ngoài và âm mưu nổi loạn. Mặt khác,
người trong nước thuộc phe thắng trận cũng cần hình dung được những nỗi đau của hàng
trăm ngàn người cũng vì lòng yêu nước mà đã bị hành hạ tàn nhẫn trong những trại tù cải
tạo, của trên dưới hai triệu người đã phải rời bỏ quê cha đất tổ, bỏ hết cả tài sản và sự nghiệp
đã xây dựng được, nhất là phải chịu những gian khổ và mất mát quá lớn trong những cuộc
vượt thoát bằng đường biển hay đường bộ, để có thể hiểu được lòng căm hận đối với những
người và chế độ đã gây tai họa cho họ. Sau mấy chục năm qua, với sự nghiệp vững chãi và
thành tích vẻ vang của thế hệ con em tại quốc gia định cư, lòng thù hận của những nạn nhân
này đáng lẽ đã có thể được đẩy vào dĩ vãng nếu nhà cầm quyền trong nước thật tâm hoà giải
và thật tâm theo đuổi những mục tiêu đã đề ra là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.”

Điều quan trọng cần nhận rõ là đại đa số trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài-kể cả đa
số trong những người cực đoan-chống chế độ ở trong nước không còn vì hận thù quá khứ mà
vì những chính sách cai trị độc tài, chà đạp nhân quyền và bóp nghẹt những khao khát về một
xã hội công bằng và dân chủ. Trong khi chính quyền chỉ nói mà không làm thì tệ nạn tham
nhũng và bất công xã hội đã gia tăng đến mức chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Như vậy thì
rốt cuộc nhân dân trong nước và cộng đồng ngoài nước đều giống nhau về mục tiêu, chỉ khác
nhau về phương pháp. Do bị hạn chế bởi những điều kiện khắc nghiệt và những đe dọa
thường trực, người trong nuớc phải giữ cái thế hợp pháp của mình nên rất e ngại, và có thể
kinh sợ khi được sự ủng hộ và tiếp cận của những lực lượng tranh đấu “quá khích.” Tất nhiên
không thể có sự kết hợp giữa hai phương pháp trái ngược, nhưng thực tế là phương pháp bên
ngoài lại có hiệu quả hỗ trợ chứ không chống đối phưong pháp bên trong, hay nói như trí
thức “Việt kiều” Trương Phước Trường, đây chính là sự “bổ sung” chứ không phải là “tranh
luận”. Thôi thì trong lúc này, hãy cứ để cho mỗi bên sử dụng phuơng cách thích hợp với
mình, hãy để cho hiệu quả hỗ trợ hay bổ sung của bên ngoài đến một cách tự nhiên.

Không nên né tránh vấn đề cốt lõi

Trở lại vấn đề bô-xít Tây Nguyên, tôi thấy cốt lõi của vấn đề không hẳn là những quan tâm
chính đáng nhưng ôm đồm nói trên mà chính là mối lo ngại về tham vọng bành trướng của
Trung Quốc, cụ thể là mưu đồ của giới lãnh đạo nước này muốn đưa Việt Nam vào quỹ đạo
kiểm soát của Trung Quốc. Cho đến nay, vì những lý do tế nhị đối với láng giềng phương
Bắc, tất cả những kiến nghị dừng dự án bô-xít ở trong nước, kể cả những lá thư của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, đều chỉ lồng vấn đề an ninh, quốc phòng vào trong những vấn đề
quan tâm chung, và vẫn phải nấp sau tấm bình phong khoa học, kỹ thuật. Tôi thấy rằng nếu
cả hai phía chính quyền và nhân dân cứ tiếp tục tranh biện về những vấn đề phụ mà né tránh
vấn đề chính, một bên vì muốn bảo vệ quyền lực và quyền lợi, một bên muốn giải quyết vấn
đề trong hoà bình, và nếu bên ngoài thiếu thận trọng trong việc hỗ trợ cho bên trong, thì đất
nước sẽ không tránh khỏi nguy cơ lọt vào vòng bảo hộ của Trung Quốc trong một tương lai
không xa.

Những cuộc vận động độc lập ở trong và ngoài nước đòi hỏi ngưng dự án bô-xít Tây Nguyên
vì những quan tâm về môi trường, kinh tế, lao động, văn hoá sắc tộc… vẫn cần được tiếp tục,
có thể phải vận động sự can thiệp của UNESCO căn cứ vào Công ước Bảo vệ Di sản Văn hoá
Phi Vật thể (Convention of the Intangible Cultural Heritage), ngày 3 tháng 11 năm 2003 mà
Việt Nam có ký kết. Việc bảo vệ văn hoá phi vật thể ở Việt Nam bao gồm “Không gian Văn
hoá Cồng Chiêng “(Space of Gong Culture) ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam (nay gọi là
Tây Nguyên). Một số trí thức trẻ ở nước ngoài đang chuẩn bị làm công việc vận động này
nhưng còn phải được nghiên cứu kỹ hơn về tính thích hợp và khả năng can thiệp của
UNESCO.

Sự hỗ trợ thích hợp nhất của người Việt Nam ở nước ngoài cho cuộc vận đông ngưng dự án
bô-xít của người trong nước là chú trọng vào đối tượng Trung Quốc. Cần tập trung các nỗ lực
vào chiến dịch vận động các chính phủ sở tại, các quốc gia và tổ chức quốc tế đang chia sẻ
nỗi lo âu về sự kiện Trung Quốc gia tăng tham vọng bá quyền trong khu vực và tranh thủ địa
vị siêu cường trong cộng đồng thế giới. Đây là một tầm nhìn chiến lược đòi hỏi một kế hoạch
vận động ngoại giao không chính thức nhưng có bài bản thích hợp và có tính thuyết phục với
từng đối tượng, do đó cần có sự trao đổi kinh nghiệm và hợp tác giữa những nhà nghiên cứu,
những giáo sư chính trị học và bang giao quốc tế, những chuyên gia đã và đang làm việc với
các chính phủ và cơ quan quốc tế, những người am hiểu tình hình chính trị khu vực và toàn
cầu. Số người này trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài không phải là nhỏ.

Thư Kiến nghị của nhóm Nguyễn Huệ Chi được chấm dứt bằng một lời kêu gọi hướng về
phương Bắc: “Nhân dịp này, chúng tôi kêu gọi người Trung Hoa nhất là giới trí thức hãy ủng
hộ dân tộc Việt Nam, giúp cho môi trường sống của nước láng giềng phía Nam được trong
lành, giúp cho nhiều vấn đề còn dở dang giữa hai quốc gia được giải quyết trong hoà bình và
hữu nghị.”

Lòi kêu gọi này xuất phát từ nỗi lo ngại chính đáng về một cuộc đối đầu với Trung Quốc
bằng vũ lực mà Việt Nam cần phải tránh. Trực diện với tham vọng của Trung Quốc không
phải để gây chiến mà để tìm mọi cách bảo vệ sự sống còn của dân tộc trong hoà bình. Một
trong những cách này là kêu gọi giới trí thức Trung Hoa ủng hộ và vận động cho việc giải
quyết những vấn đề còn tồn tại giữa hai nước trong hoà bình và hữu nghị. Tôi tán thành lời
kêu gọi này nhưng tôi không kỳ vọng vào hiệu quả tích cực của nó, vì đồng thời với công
cuộc tranh thủ địa vị siêu cường, lãnh đạo Trung Quốc cũng đang làm thức dậy niềm tự hào
dân tộc. Trong những nỗ lực này, trí thức Trung Quốc chắc chắn phải có phần đóng góp quan
trọng. Chúng ta không chống lại sự phục hồi niềm tự hào và danh dự của dân tộc Trung Hoa
do những hành động xâm lăng và hạ nhục trong quá khứ của những nước Tây phương và
Nhật Bản. Chúng ta cũng không chống lại những cố gắng tranh thủ vị thế siêu cường của
Trung Quốc, nhưng chúng ta cũng như các dân tộc yêu chuộng dân chủ chống lại những nỗ
lực này chỉ vì Trung Quốc là một nước độc tài toàn trị có tham vọng bá quyền trong khu vực
và toàn cầu. Giả thử Trung Quốc là một nước dân chủ, tôn trọng chủ quyền và đối xử bình
đẳng với Việt Nam và các nước trong khu vực thì nhất định chúng ta sẽ ủng hộ hết lòng.

Tới đây, tôi xin chia sẻ một câu chuyện trong lần tôi gặp cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt ở Việt
Nam hồi tháng Mười 2007. Trong cuộc đàm luận có sự hiện diện của nhà báo Huy Đức ghi
chép cho ông Kiệt, khi đề cập đến vấn đề quan hệ Việt-Trung, tôi kể rằng hồi tôi còn dạy ở
Đại học Johns Hopkins, tôi có gặp một học giả Trung Quốc trong một bữa ăn ở Washington
DC để nghe bài nói chuyện về Việt Nam của Đại sứ Mỹ Burkhardt. Học giả này còn trẻ,
khoảng chưa tới 50, tên là Wu Bao Cai (Ngô Bảo Thái?) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Quốc
tế Đương đại ở Bắc Kinh được học bổng nghiên cứu của Phân khoa Chính trị học, Đại học
Virginia. Khi trao đổi danh thiếp, ông có vẻ chú ý tới chức vụ cũ của tôi ở Trung tâm Tác vụ
Đông Nam Á (SEARAC). Ít lâu sau, tôi được ông điện thoại cho hay vợ chồng ông sắp về
nước và ông muốn gặp tôi để phỏng vấn trước ngày lên đường. Tôi mời hai ông bà đến ăn
trưa ở nhà tôi. Bà vợ, cũng nói giỏi tiếng Anh, làm thư ký ghi chép. Ông hỏi thăm tôi về các
hoạt động của Trung tâm SEARAC, về công cuộc định cư và hội nhập xã hội Mỹ của người tị
nạn Việt Nam, về các tổ chức cộng đồng và quan hệ giữa cộng đồng người Mỹ gốc Việt với
Việt Nam. Sau cùng, ông xin phép hỏi tôi một câu tế nhị và mong tôi thẳng thắn trả lời. Câu
hỏi là: Trung Quốc đã hết lòng viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam, nhờ đó Việt Nam
đã thắng được cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, như vậy tại sao Việt Nam lại
thù ghét Trung Quốc? Tôi đáp: “Ông hiểu biết nhiều về lịch sử của cả hai nước, vậy trước khi
trả lời câu hỏi của ông chúng ta hãy kiểm điểm xem từ thời thượng cổ đến nay, trừ một cuộc
hành quân của Lý Thường Kiệt đòi lại đất đai bị mất, có khi nào Việt Nam xâm lăng hay gây
chiến với Trung Quốc hay không, hay chỉ đúng trong trường hợp ngược lại?”

Trở về với câu hỏi của ông Wu, tôi trả lời ông là, nói cho đúng, Việt Nam không ghét nhưng
sợ Trung Quốc. Là một nước nhỏ ở phía Nam biên giới, Việt Nam chỉ mong muốn có hoà
bình và giao hảo với Trung Quốc, nhưng khi lãnh thổ bị xâm lăng thì toàn dân đều một lòng
chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Tôi nhắc lại thời Đông Chu, Trung Quốc gồm có mấy chục nước
luôn luôn tìm cách chinh phục lẫn nhau, số thương vong quân cũng như dân nhiều không kể
xiết. Việt Nam vì là một nước biệt lập ở bên kia biên giới nên không bị lôi cuốn vào cảnh cốt
nhục tương tàn của Trung Quốc, nhưng vẫn phải đối phó với những triều đại lớn như Hán,
Tống, Nguyên , Minh, Thanh. Vì vậy, nếu Trung Quốc không có ý đồ thôn tính hay áp đặt
chính sách ở Việt Nam thì chắc chắn sẽ được Việt Nam tôn trọng như một nước đàn anh.
Trong thời đại toàn cầu hoá ngày nay, thế giới chia thành khối vừa hợp tác vừa đua tranh phát
triển, nếu Trung Quốc có thể gây được niềm tin, không chỉ đối với Việt Nam mà cả với các
nước trong khu vực thì khối Đông Á sẽ phát triển bền vững và chung sống hòa bình thịnh
vượng lâu dài. Trước khi chia tay, ông Wu hỏi tôi nếu được Viện Nghiên cứu Quốc tế ở Bắc
Kinh mời sang nói chuyện thì tôi có nhận lời không. Tôi cho biết là tôi sẽ rất hân hạnh nhận
lời, nhưng từ đó không thấy có tin tức gì. Tôi nghĩ rằng ông Wu, một trí thức được đào tạo ở
ngoại quốc và có nhiều cơ hội trao đổi với bên ngoài, thuộc thành phần thiểu số trí thức tiến
bộ ở Bắc Kinh.

Chúng ta khó trông cậy vào sự ủng hộ của trí thức Trung Hoa ở trong nước nhưng chúng ta
có thể hi vọng được sự ủng hộ của trí thức Trung Hoa ở nước ngoài. Vì cùng được đào tạo và
sinh hoạt trong những môi trường tự do dân chủ, trí thức Việt Nam và Trung Hoa hải ngoại
có tư duy thông thoáng về quan hệ quốc tế, quen với lề lối đối xử bình đẳng, hợp tác trong
hoà bình và công lý, do đó dễ tạo được sự thông cảm và hỗ trợ lẫn nhau. Ngoài ra trí thức
người Việt ở nước ngoài, với sự hậu thuẫn của cộng đồng, cũng có điều kiện tự do phát biểu
ý kiến, trực tiếp hay gián tiếp, với các nhà làm chính sách ở Việt Nam và Trung Quốc, viết
bài và tham gia các diễn đàn về bang giao quốc tế, đóng góp những lý luận thuyết phục với
chính phủ và nhân dân các nước trong khu vực về việc xây dựng lập trường chung đối với
Trung Quốc trong việc giải quyết hoà bình vấn đề tranh chấp lãnh hải. Đó là những công tác
hết sức khó khăn nhưng không thể không làm và không thể không trông cậy vào sự đóng góp
của người Việt ở hải ngoại.

Nhân tài Việt Nam ở nước ngoài, không chỉ gồm những trí thức, chuyên gia gốc tị nạn mà
gồm cả những cựu sinh viên du học từ trước năm 1975 và những sinh viên du học cấp tiến sĩ
trong những năm gần đây đã quyết định ở lại bên ngoài để làm việc trong khi chờ đợi những
điều kiện ở trong nước được cải thiện. Đội ngũ nhân tài người Việt hải ngoại, hầu hết là
người trẻ, được ước tính có khoảng trên ba trăm ngàn chuyên gia đủ mọi ngành. Đội ngũ đó
nếu có cơ hội và điều kiện thuận tiện để hợp tác với đội ngũ trí thức tiến bộ ở trong nước sẽ
chắc chắn giúp cho Việt Nam sớm trở thành một quốc gia giàu mạnh và dân chủ, xứng đáng
ngang hàng với những con rồng, con cọp ở Á châu. Tạp chí The Economist gần đây cho thấy
Ấn Độ đã nhờ cậy rất nhiều vào khối trí thức của họ ở hải ngoại để phát triển kinh tế, và đã
bắt đầu đảo ngược trào lưu thoát não (brain drain) của xứ này. Giữa 2003 và 2005, khoảng
5.000 chuyên gia ưu tú Ấn Độ có trên 5 năm kinh nghiệm làm việc ở Hoa Kỳ đã trở về nước
và tăng cường liên doanh hợp tác với các tập đoàn công nghệ cao của Mỹ. Về Trung Quốc,
bản báo cáo này cũng cho thấy Trung Quốc, dù có những trở ngại về Anh ngữ và sự lũng
đoạn của các công ty quốc doanh, đã sử dụng được tối đa khối chuyên gia người Mỹ gốc
Hoa, đặc biệt từ thung lũng điện tử (Silicon Valley). Trong những năm gần đây, số người
Hoa ở nước ngoài trở về nước gia tăng đến độ đã trở thành một trào lưu được mệnh danh là
B2C (back to China).3

Nhu cầu hợp tác của trí thức trong và ngoài nuớc trong tiến trình đổi mới và phát triển đã
được cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đưa lên hàng quốc sách để thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Một dự án thành lập một viện nghiên cứu
chiến lược phát triển như một loại “think tank” ở các quốc gia tiến bộ, với sự phối hợp của trí
thức, chuyên gia trong và ngoài nước, đã được thành hình và đề nghị từ hai năm trước với các
lãnh đạo cấp cao nhất. Dự án đã được chấp thuận trên nguyên tắc nhưng đã bị lặng lẽ bỏ rơi.

Một tháng sau ngày ông Võ Văn Kiệt qua đời, tôi có viết bài “Thông điệp chính trị Võ Văn
Kiệt“. Tôi đã kết luận bằng nhận định: “Trước lịch sử, nhà cách mạng Sáu Dân Võ Văn Kiệt
phải chịu phần trách nhiệm không nhỏ về những chính sách sai lầm của Đảng và Nhà nước,
nhất là ở miền Nam sau khi thống nhất. Nhưng lịch sử cũng ghi nhận ông là một người yêu
nước, một lãnh tụ cộng sản sớm giác ngộ nhất, có tầm nhìn chiến lược và những bước chiến
thuật rất thực tế trong những giới hạn của cơ chế độc tài toàn trị vào một thời điểm nhất định
trong lịch sử.”
Tôi cũng nhấn mạnh rằng ông Kiệt đã để lại một công trình dang dở của một chính trị gia
giàu kinh nghiệm và nhiều trăn trở với đất nước, đòi hỏi những người đang nắm giữ vận
mệnh quốc gia phải lãnh nhận và tiếp tục thực hiện để cho quốc gia Việt Nam sớm đuổi kịp
các con rồng con cọp trong khu vực, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.

Ông Võ Văn Kiệt đã ra đi được một năm. Công trình dang dở của ông chẳng những không
đuợc thực hiện mà triển vọng đất nước còn tối tăm hơn. Tôi cầu nguyện vong linh ông phù hộ
cho những người lãnh đạo còn có lương tri và cho những nỗ lực của toàn dân trong công cuộc
bảo vệ chủ quyền quốc gia và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ được thành công.

2 tháng Sáu 2009

© 2009 Lê Xuân Khoa

© 2009 talawas blog

1 Đoạn này viết theo bản tin VietNamNet, 23:26′ 25/04/2009 (GMT + 7)

2 Như trên

3 The Economist, March 12th, 2009, Special Report “The more the merrier: India and China
are creating millions of entrepreneurs”.
Thứ Ba, ngày 9 tháng 6 năm 2009 Ai sợ Trung Quốc?

• Nguồn: báo Tổ quốc

Ai sợ Trung Quốc?

• Nguồn: báo Tổ quốc

Qua bài “Dự án Bauxite Tây Nguyên: cái nhìn của một người Việt Nam ở nước ngoài” (trên
Talawas-03/06/09 và nhiều Trang Mạng khác) tác giả Lê Xuân Khoa đã viết rất dài tựu chung
không có ý gì mới mẻ của “một người Việt Nam ở nước ngoài”, nhưng ngoài những lời lẽ ca
tụng cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông lại còn khẳng định với ông giáo sư Wu (người TQ) như
sau:

…“Trở về với câu hỏi của ông Wu, tôi (GS Lê Xuân Khoa) trả lời ông là, nói cho đúng, Việt
Nam không ghét nhưng sợ Trung Quốc”.

……………………………………………………………………………

“Việt Nam sợ Trung Quốc? Có thật không, ông GS Lê Xuân Khoa?”

Lịch sử cha ông ta trải qua mấy ngàn năm tranh đấu chống ngoại xâm phương Bắc với biết
bao chiến công lẫy lừng giang sơn như Bạch Đằng Giang, ải Chi Lăng, gò Đống Đa, với
những anh hùng hào kiệt như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,
Trần Thủ Độ, Trần Quang Khải, Lê Lợi, Lê Lai, Trần Bình Trọng, Nguyễn Trãi, Phạm Ngũ
Lão, Quang Trung Nguyễn Huệ …trận hải chiến giành lại HS-TS giữa VNCH với TQ (1974),
những áng văn về Hội Nghị Diên Hồng, Bình Ngô Đại Cáo, Hịch Tướng Sĩ….và hình ảnh
những anh chị em học sinh sinh viên trí thức dám cầm biểu ngữ xuống đường phản đối TQ
xâm lược HS TS năm 2007…ai dám bảo rằng nhân dân Việt Nam sợ Trung Quốc?

“KHÔNG, NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÔNG HIẾU CHIẾN và TUYỆT ĐỐI KHÔNG
BAO GIỜ SỢ TRUNG QUỐC”. Ông Lê Xuân Khoa nên nhớ rõ cho điều này.

Vậy thì ai sợ Trung Quốc? Phân tích tình hình đất nước từ ngày Đảng Cộng Sản Việt Nam
hình thành đến nay, tôi xin có nhận xét như sau:

1.- Bức công hàm của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng ký với TQ ngày xưa v/d đảo HS-TS,
thêm một lần nữa, cho thấy đảng CSVN đã ngấm ngầm cấu kết và cam tâm chịu sức ép cùng
sự hỗ trợ của đảng CSTQ từ nửa thế kỷ nay, có thể xem đảng CSTQ như là “một ông Bố
Già” (GodFather) của đảng CSVN. Thật vậy, đảng CSTQ đã nắm hết mọi yếu điểm của đảng
CSVN và sẵn sàng ra tay khai thác triệt để. Đảng CSVN chỉ biết ngậm bồ hòn làm ngọt và
cắn răng nhìn lảnh thổ bị xâm chiếm, bị tước đoạt dần dần, ngư dân bị uy hiếp, giết hại. Mới
đây TQ lại ra lệnh cấm đánh bắt cá trong vùng hải phận VN (HS-TS): sao không thấy ông
huyện trưởng huyện Hoàng Sa lên tiếng, còn nhớ khi ông mới nhậm chức cách đây hai tháng
ông tuyên bố ầm ỹ thế nào trên báo chí? Và nhìn xem cung cách chính quyền VN phản ứng
với TQ ra sao? Có thể nói rằng: độc lập VN bây giờ chỉ còn là một nền độc lập giả tạo, độc
lập nửa mùa, độc lập có điều kiện (TQ).
Kết luận: chỉ có lãnh đạo đảng CSVN mới sợ TQ mà thôi, hoặc là đám bầy tôi vua Lê Chiêu
Thống, Trần Ích Tắc.
2.- Suốt ba mươi bốn năm trời từ lúc thống nhất đất nước, đảng CSVN đã liên tục phạm quá
nhiều lỗi lầm nghiêm trọng (chính sách Học Tập Cải Tạo; chiến dịch đánh Tư Sản Mại Bản;
đầu c phân biệt Mỹ Nguỵ; tuyên truyền một chiều ngu dân và mỵ dân; giáo dục xuống
cấp trầm trọng, vv…) đưa đến tình trạng phân hóa dân tộc, dân trí bị che mờ, dân khí bị tiêu
hao, thúc đẩy nhân tài trí thức bỏ đi, hoặc không muốn trở về phục vụ đất nước. Hậu quả tất
nhiên là Việt Nam ngày nay cạn kiệt nhân tài, thiếu chuyên gia, thiếu trí thức tài giỏi đến giờ
phút này không đủ sức cáng đáng nổi một công trình nhỏ bé như Bauxite Tây Nguyên, đành
cúi đầu ngồi nhìn các công ty TQ bao thầu toàn thể dự án, đưa toàn bộ nhân công người Hoa
vào xâm chiếm vùng đất chiến lược quan trọng. Nghe Đại Tướng Võ Nguyên Giáp kêu gọi
“nếu đời này làm không được thì hãy để đời sau con cháu làm” để hiểu ngầm rằng thế hệ trí
thức hiện thời ở VN không còn được đảng CS và Nhà Nước tin cậy nữa. Thật là buồn bã và
cay đắng biết chừng nào! Tôi rất thông cảm và thương mến các anh chị em khoa học trí thức
trong nước, tôi hiểu rõ tình cảnh trên đe dưới búa của các anh chị. Tôi đã nhiều lần về thăm
quê hương để nhìn thấy tận mắt những hình thức trù dập kềm kẹp của chế độ lên đầu cổ giới
trí thức trong nước. Tình trạng bi thảm ngày hôm nay các anh các chị chỉ là nạn nhân, kẻ gây
ra trọng tội chính là những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam. Vì chủ nghĩa CS “duy
ý chí” người ta chỉ biết dùng tuyên truyền, vũ lực để ép buộc trí thức cúi đầu “gọi dạ, bảo
vâng, vỗ tay hoan nghênh mệnh lệnh Đảng”, tiêu diệt sáng tạo, tiêu diệt tính tự chủ thì kết
quả ngày hôm nay là thế đấy.

3.- Phong trào phản biện Bauxite VietNam đã kéo dài gần hai tháng nay, biết bao ý kiến tâm
huyết đóng góp từ bốn phương trời, trong nước và hải ngoại, biết bao tầng lớp xã hội thi nhau
lên tiếng (trí thức, kỹ thuật gia, văn sĩ, giáo chức, vv…) biết bao dữ kiện đưa ra có tính cách
thuyết phục để cảnh báo và ngăn cản dự án này, chứng tỏ họ đâu có ngán gì TQ. Thế nhưng
Quốc Hội vẫn im re hoặc chỉ lèo tèo vài tiếng kêu gọi lấy lệ. Điều đáng buồn là cả tập đoàn
lãnh đạo đảng CSVN, đã cố tình bưng tai bịt mắt, thụ động ngồi yên. Không có lấy một câu
trả lời giải thích, mà chỉ âm thầm siết chặt thêm kiểm soát thông tin báo chí. Từ nay, mọi tin
tức liên quan đến Bauxite đều bị cấm đoán đăng tải trên báo chí chính phủ. Một đám mây đen
tối ảm đạm đang bao trùm lên quyền cơ bản tự do ngôn luận của người dân.

4.- Trong khi đó vòng vây TQ bao quanh VN càng ngày càng âm thầm siết chặt, từ chính trị
(nắm đầu lãnh đạo đảng CSVN xuyên qua vụ WebSite VN-TQ), đến kinh tế (hàng hoá tràn
ngập, hàng lậu và cả hàng nhái, hầu như 99% mọi công trình xây dựng đều dâng lên cho nhà
thầu TQ), đến quân sự (khống chế biển Đông, ngăn đánh c , chiếm lĩnh vùng trọng điểm
chiến lược trên Tây Nguyên), cho đến ngăn chận sông ngòi (MeKong, và có thể, sông Hồng
?) vv…Chưa bao giờ nhân dân VN lại bị lâm vào tình thế nguy khốn như vậy. Thế nhưng
lãnh đạo đảng CSVN vẫn còn cố tình bưng bít thông tin, tiếp tục lừa dối dư luận, dân biểu
Quốc Hội thì gà mờ “vỗ tay theo Đảng” (chỉ có khoảng 20% là biết sử dụng máy tính để cập
nhật thông tin trên các trang Mạng Internet).

Trước hiểm họa mất nước gần kề, độc lập chủ quyền bị xâm phạm nặng nề, đảng CSVN chỉ
còn một lối thoát là đầu hàng chịu thua, cam nhận thân phận nô lệ TQ giống như Bắc Triều
Tiên. Nguy cơ Việt Nam sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới, nguy cơ ngôn ngữ tiếng Việt ngàn
năm sẽ bị thay thế bằng tiếng Quan Thoại, những ai về chơi VN hãy đi vào vùng Chợ Lớn
dạo quanh những con đường nhỏ thì biết, hoặc chỉ cần mua một tấm bản đồ tp Hồ Chí Minh
do Bộ Giao Thông Vận Tải ấn hành sẽ thấy chữ Hoa chi chít dầy đặc ra sao!

Dưới ách cai trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ tổ quốc Việt Nam đã bị hao
tổn quá nhiều dân trí, dân khí và nhân tài. Một lần nữa, đề nghị ông Lê Xuân Khoa hãy luôn
ghi nhớ lời dặn dò của ông Lương Khải Siêu với cụ Phan Bội Châu ngày xưa:
“Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc
lập. Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài”.

Vậy thì theo tôi nghĩ, đã đến lúc chúng ta cần phải lên tiếng tìm cách khôi phục lại dân trí,
dân khí và kêu gọi nhân tài khắp nơi về giúp nước và cứu nuớc. Dĩ nhiên với điều kiện tiên
quyết là Đảng Cộng Sản Việt Nam phải tuyên bố rút lui, Quốc Hội bù nhìn phải tự giải tán,
chính quyền CSVN trao quyền hành lại cho nhân dân, chấp nhận hình thức đa nguyên đa
đảng và tổ chức sớm một cuộc bầu cử trưng cầu dân ý trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam để định
đoạt thể chế tương lai cho mọi tầng lớp dân chúng trong đó mọi quyền tự do dân chủ cơ bản
phải được tôn trọng.

VietKieuCan

Nguồn: báo Tổ quốc


09/06/2009

Anda mungkin juga menyukai